Chủ Nhật, 10 tháng 8, 2014

Là trường tây học đầu tiên của Nhật (được thành lập dưới thời Minh Trị), tham vọng của Đại học Tokyo - Todai là xây dựng một nền giáo dục làm bằng đại học và nghiên cứu tiên tiến nhất trên thế giới. Với Todai, đứng đầu 507 trường đại học ở Nhật hay nhất châu Á cũng vẫn chưa đủ!
Todai - Điệp vụ bất khả thi
Trường bằng đại học Tokyo-Todai

"Mang tiếng" là trường đại học quý tộc nhất Nhật Bản, chuyên cung cấp... Thủ tướng và không ít các nhà khoa học đoạt giải Nobel cho đất nước Mặt trời mọc bất cứ bậc phụ huynh nào cũng mơ được giới thiệu với bạn bè là con tôi học ở Đại học Tokyo - Todai (www.todai.tv).

Todai nổi tiếng là có những bài kiểm tra đầu vào (nyugaku shiken - entrance examinations) khó đến... không thể tin được. Áp lực rất nhiều mới thi đỗ làm bằng đại học vào trường danh giá nhất nước khiến cho nhiều bạn trẻ (được gọi đây là ronin - samurai, không có thầy để theo phục vụ) khóc ròng, mòn mỏi học và thi nhiều năm trời cho tới tận khi nào... đỗ thì thôi. Điều này khiến cho tuổi tác sinh viên Todai rất phong phú.
Tuy thế vẫn cứ có những sinh viên ưu tú vượt qua ngon lành: Todai có hơn 29.000 sinh viên theo học, trong đó có hơn 2.000 sinh viên quốc tế và hơn 2.700 chuyên gia quốc tế tới làm việc và nghiên cứu hằng năm.
Thiên đường nghiên cứu
Trường có 9 khoa, 15 trường trực thuộc, 11 viện nghiên cứu và 21 trung tâm mở rộng khác cho học giả trên khắp nước Nhật tới hợp tác nghiên cứu.
Thư viện của Đại học Tokyo bao gồm thư viện lớn General Library (130 năm tuổi), thư viện Komaba (chủ yếu phục vụ sinh viên 2 năm đại cương) và thư viện Kashiwa (mở năm 2004), sở hữu tổng cộng hơn 8 triệu đầu sách là thư viện lớn nhất Nhật Bản.
Thư viện số hóa là một phần quan trọng trong quá trình quốc tế hóa nền giáo dục của Todai. 
Trường sở hữu website rất tiện ích nên sinh viên và nghiên cứu sinh có thể dễ dàng truy cập. Cơ sở dữ liệu khổng lồ được mã hoá thành các bộ sưu tập số hóa - "digital Collections" - giúp tiết kiệm thời gian hơn nhiều lần. Điều đặc biệt là phần thư viện mở phục vụ công chúng dành cho những người yêu nghiên cứu cho dù không phải là sinh viên của trường hay thành viên của Todai.
Về nghiên cứu Todai mỗi năm thực hiện gần 1.000 nghiên cứu chung với các tổ chức cá nhân và nhận khoảng 1.000 hợp đồng nghiên cứu khác chưa kể hàng chục nghìn nghiên cứu nhận được hỗ trợ tài chính từ bên ngoài.  


Cổng đỏ nổi tiếng của trường đại học Tokyo-Todai 
Những phòng thí nghiệm mở cùng với các công ty hàng đầu thế giới tạo điều kiện cho các nhà nghiên cứu của trường có môi trường làm việc tốt nhất, hiệu quả và có ích nhất cho xã hội vì chính ứng dụng của những nghiên cứu đó sẽ được đưa ra áp dụng hàng loạt cho các sản phẩm thực sự phục vụ đời sống con người.

Quốc tế hóa nền giáo dục
Đại học Tokyo chào đón sinh viên và nghiên cứu sinh đến từ bất cứ đâu (tất nhiên là phải giỏi!): trong 2.444 sinh viên quốc tế có 150 sinh viên và nghiên cứu sinh Việt Nam học tại Todai theo thống kê năm 2008.
Trường mỗi năm cũng gửi hàng trăm sinh viên tới các trường đại học khác trên thế giới qua đó thiết lập mạng lưới giáo dục toàn cầu. Năm 2007 sinh viên và giảng viên của trường đã tham gia vào 277 chương trình trao đổi và hợp tác nghiên cứu với hơn 200 đơn vị trên 47 nước.  

Thứ Năm, 7 tháng 8, 2014

Bệnh viện Đại học Y Asahikawa
Trường Đại học Y Asahikawa (hay AMU) là một trường đại học quốc gia về y tế nằm ở Asahikawa, Nhật Bản.
Tiền thân của Trường lam bang dai hoc Y Asahikawa là trường Cao đẳng Y Karahuto được thành lập tại Yuzhno-Sakhalinsk năm 1943.
Thông tin trường bằng đại học Y Asahikawa

Sau chiến tranh thế giới thứ II, trường Cao đẳng Y Karahuto đã bị đóng cửa vì các hòn đảo gần đó của Sakhalin đã bị chiếm bởi Liên minh của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô Viết Hồng quân. Chính quyền thành phố Asahikawa áp dụng lệnh tối cao của các nước đồng minh buộc Bộ Giáo dục, Khoa học, Thể thao và Văn hóa (nay là Bộ Giáo dục, Văn hóa, Thể thao, Khoa học và Công nghệ ) di dời các trường đại học y tế đến Asahikawa nhưng họ bị từ chối.
Sau khi bị từ chối, chính phủ của Hokkaido lên kế hoạch thành lập các trường y tế trong cả Asahikawa và Kushiro để giải quyết tình trạng thiếu bác sĩ ở Hokkaido. Năm 1973, trường Cao đẳng Y tế Asahikawa được thành lập. Lúc đầu trường chỉ có một bộ phận lam bang dai hoc là Y học. AMU di chuyển vào khuôn viên ban đầu của nó vào năm 1975. Trong năm 1996, Sở Khoa học Điều dưỡng được thành lập và trong năm 2010, trường được đổi tên thành Đại học Y Asahikawa.
Mục tiêu giáo dục 
Để đặt triết lý giáo dục trong thực tế, Trường Đại học Y Asahikawa đặt ra các mục tiêu sau đây:
1, Để đào tạo ra các chuyên gia chăm sóc sức khỏe có văn hóa và đạo đức.
2, Để phát triển sự hiểu biết của sinh viên về giá trị của cuộc sống và đạo đức y tế, tạo dựng lòng từ bi cho người tàn tật và bị bệnh.
3, Để sinh viên có được kiến thức chuyên môn cao và kỹ năng y tế cần thiết cũng như khả năng để tìm hiểu và nghiên cứu trong suốt cuộc đời của họ.
4, Để tăng cường khả năng giúp sinh viên có thể giao tiếp tự tin và có hiệu quả cho sự hợp tác y tế và quản lý an toàn.
5, Để thúc đẩy một sự hiểu biết tốt hơn về sức khỏe và phúc lợi xã hội trong cộng đồng địa phương và các khu vực nông thôn từ xa để đáp ứng nhu cầu dân cư ở đó.
6, Để mở rộng tầm nhìn và thúc đẩy sự tham gia và cam kết đối với cộng đồng quốc tế.

Khuôn viên trường 
Khuôn viên trường nằm ở Asahikawa và được chia thành 4 khu vực:
Khu vực giảng dạy và thực hành
Khu vực bài giảng lâm sàng
Khu vực phòng thí nghiệm
Khu vực bệnh viện
Mỗi vùng được kết nối bởi một hành lang đủ để mọi người đi lại giữa các khu vực với nhau trong thời tiết lạnh.

Bệnh viện Đại học Y Asahikawa 
Bệnh viện Đại học Y Asahikawa được thành lập vào năm 1976 như là một bệnh viện giảng dạy cho sinh viên AMU. Bệnh viện có 602 giường, và trở thành một trong những bệnh viện chính ở khu vực phía Bắc và phía Nam tại Hokkaido. Nơi đây nổi tiếng đối với những dự án nghiên cứu của mình: chữa trị chân liệt, đau lưng, phẫu thuật căn bản cho bệnh nhân ung thư tử cung bằng nội soi.

Thư viện Đại học Y Asahikawa 
Thư viện Đại học Y Asahikawa được thành lập vào năm 1978. Hiện tại có khoảng 160.000 cuốn sách, tạp chí và 10.000 tài nguyên kỹ thuật số. Những loại sách này không chỉ bao gồm về giáo dục y tế mà còn về toán học và nghệ thuật tự do khác. 
Là trường đại học tư nhân ở Sendai, Nhật Bản. Trường làm bằng đại học được thành lập theo một nền tảng Kitô giáo, đặc biệt là Đức Giáo hội cải cách mà sau này được biết đến như là Giáo Hội cải cách ở Hoa Kỳ. Một phần lớn của Giáo Hội cải cách tại Hoa Kỳ sau đó được sáp nhập và ngày hôm nay gọi là Giáo Hội của Chúa Kitô ở Hoa Kỳ.
Trường bằng đại học Tohoku Gakuin

Đại học Tohoku Gakuin được thành lập vào năm 1886 bởi những người Tin Lành. Hiệu trưởng đầu tiên là Oshikawa Masayoshi, một cựu samurai ở Matsuyama và là một trong những người Tin Lành đầu tiên tại Nhật Bản. Năm 1891, trường được đổi tên thành Tohoku Gakuin và một khóa học cho sinh viên ngoài Kitô giáo đã được bổ sung.
Năm 1904 các khóa học đại học chuyên ngành đã được thêm vào. Các trường đại học lúc đầu có 2 khoa: khoa Thư tín và Thần học. Năm 1918 trường trung học và khoa Thương mại đã được thêm vào. Năm 1926 tòa nhà chính (ngày nay vẫn còn được sử dụng) được xây dựng trong Tsuchitoi. Sau chiến tranh thế giới thứ II, đại học được tổ chức lại thành trường làm bằng đại học Tohoku Gakuin (thuộc hệ thống giáo dục mới của Nhật Bản) vào năm 1949.
Các khoa:
Khoa thư tín (trong Tsuchitoi, Aoba-ku, Sendai)
Kinh tế (trong Tsuchitoi)
Luật (trong Tsuchitoi)
Kỹ thuật (trong Tagajo)
Nghệ thuật tự do (ở trường Izumi, Izumi-ku, Sendai)

Các trường đại học 
Thư
Kinh tế
Luật
Kỹ thuật
Quản trị tin học, công nghệ thông tin

Thứ Tư, 6 tháng 8, 2014

 Tiếng Việt:  Trường đại học Phạm Văn Đồng.
 Tiếng Anh:  Pham Van Dong University viết tắt là PDU.
3/- Địa điểm: Trụ sở chính đặt tại 986 Quang Trung (Phường Chánh Lộ), Thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi.
 Tel: 055-2240902-3710569;       Fax: 055-3824925
4/- Cơ quan quản lý : Trường trực thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ngãi, chịu sự quản lý Nhà nước về giáo dục của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
5/- Chức năng:  Đào tạo nguồn nhân lực có trình độ làm bằng đại học cao nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển KT-XH tỉnh Quảng Ngãi và khu vực; Bồi dưỡng, cập nhật kiến thức cho đội ngũ cán bộ, công chức theo yêu cầu chuẩn hóa đội ngũ và nâng cao trình độ nghiệp vụ chuyên môn theo yêu cầu công tác; Nghiên cứu phát triển và thực hiện các dịch vụ chuyển giao khoa học công nghệ; Bảo tồn và phát triển văn hoá các dân tộc; Phối kết hợp với các trường ĐH trong nước và nước ngoài về đào tạo và nghiên cứu, trao đổi khoa học và chuyển giao công nghệ; Thực hiện các nhiệm vụ khác theo qui định của pháp luật.
đại học phạm văn đồng

6/- Nhiệm vụ: Tổ chức đào tạo trình độ làm bằng đại học, sau đại học, và các trình độ thấp hơn gồm các ngành mà địa phương, khu vực có nhu cầu lớn như: sư phạm, kinh tế, kỹ thuật, công nghệ, ...; Tổ chức các phương thức giáo dục không chính qui như: bồi dưỡng nâng cao trình độ, chuẩn hóa cán bộ, cập nhật kiến thức cho đội ngũ cán bộ, công chức các cấp, các ngành, các doanh nghiệp và người lao động trong tỉnh, khu vực; Tổ chức các hoạt động nghiên cứu và ứng dụng khoa học – kỹ thuật; các hoạt động văn hóa - khoa học góp phần phát triển cộng đồng; Thực hiện sự liên kết hợp tác với các trường đại học, các cơ quan nghiên cứu khoa học trong cả nước và khu vực, các cơ sở đào tạo và các tổ chức quốc tế.
I. Sứ mạng:
     Trường Đại học Phạm Văn Đồng là cơ sở công lập, đào tạo đa ngành, đa cấp, đa phương thức; là cơ sở nghiên cứu khoa học, ứng dụng và chuyển giao công nghệ; cung cấp nguồn nhân lực có chất lượng đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Quảng Ngãi và khu vực Miền Trung - Tây Nguyên.
 II. Tầm nhìn:
     Trường Đại học Phạm Văn Đồng là cơ sở giáo dục - đào tạo có uy tín ở khu vực Miền Trung - Tây Nguyên, định hướng ứng dụng.
 III. Mục tiêu tổng quát:
     1. Mục tiêu ngắn hạn (hình thành thương hiệu): Đến năm 2012, Trường Đại học Phạm Văn Đồng được biết đến là một trường Đại học có tầm nhìn và quyết tâm phát triển cao.
     2. Mục tiêu trung hạn: Đến năm 2017, xây dựng nhà trường đạt chuẩn về cơ sở vật chất và nguồn lực.
     3. Mục tiêu dài hạn (phát triển thương hiệu): Đến năm 2022, Trường Đại học Phạm Văn Đồng trở thành cơ sở giáo dục - đào tạo có uy tín trong khu vực Miền Trung - Tây Nguyên. 


 Tên học viện: 
- Tên bằng tiếng Việt: HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM    
- Tên bằng tiếng Anh: VIETNAM NATIONAL UNIVERSITY OF AGRICULTURE
- Tên viết tắt: VNUA
*/ Tên trước đây:
- Trường làm bằng đại học Nông Lâm
- Học Viện Nông Lâm
- Trường Đại học Nông nghiệp
- Trường Đại học Nông nghiệp I - Hà Nội
- Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội
*/ Cơ quan Bộ chủ quản: Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
*/ Địa chỉ  Học viện: Thị trấn Trâu Quỳ, Huyện Gia Lâm, Thành phố Hà Nội
*/ Số điện thoại liên hệ: 048276346, fax: 248276554
trường đại học nông nghiệp

*/ Năm thành lập: Ngày 12 tháng 10 năm 1956 theo Nghị định số 53/NĐ-NL của Bộ Nông Lâm
*/ Thời gian bắt đầu đào tạo làm bằng đại học khoá I: Năm 1956
*/ Thời gian cấp bằng tốt nghiệp cho khoá thứ nhất: 24/12/ 1959
*/ Loại hình trường đào tạo: Trường trọng điểm quốc gia
I. Tầm nhìn
            Học viện Nông nghiệp Việt Nam phấn đấu trở thành trung tâm đào tạo, nghiên cứu đa ngành với chất lượng hàng đầu trong nước, tiên tiến trong khu vực về nông nghiệp và phát triển nông thôn, phục vụ đắc lực cho công cuộc đổi mới cơ bản và toàn diện giáo dục đại học Việt Nam
II. Sứ mạng
             Là trường trọng điểm quốc gia, Học viện Nông nghiệp Việt Nam không ngừng phấn đấu đạt chất lượng cao trong đào tạo, khoa học-công nghệ và phục vụ xã hội, đóng góp thiết thực cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hoá nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam văn minh, giàu, đẹp.
III. Nhiệm vụ
           - Đào tạo nguồn nhân lực có trình độ đại học, thạc sĩ, tiến sĩ và các trình độ khác;
           - Nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ;
           - Chuyển giao công nghệ và phục vụ xã hội.
IV. Hệ thống giá trị cơ bản
           - Định hướng theo con người và phục vụ xã hội
           - Đáp ứng nhu cầu xã hội và thực hiện trách nhiệm với cộng đồng
           - Lấy chất lượng và hiệu quả làm mục tiêu phấn đấu
           - Coi trọng phẩm chất chính trị, kiến thức, đạo đức và kỹ năng nghề nghiệp, đảm bảo cho sự phát triển bền vững của Nhà trường.


Thứ Bảy, 2 tháng 8, 2014

Với lịch sử hơn 40 năm xây dựng và trưởng thành, Trường ĐHSP Nghệ thuật TW là nơi đào tạo làm bằng đại học, bồi dưỡng hàng ngàn lượt giáo viên nghệ thuật, cán bộ quản lý cho ngành giáo dục nói riêng và cả nước nói chung. Đây là một trong những cơ sở đào tạo uy tín, lâu năm được nhà nước, xã hội công nhận.

Trường Đại học Sư phạm Nghệ thuật Trung ương

Sư phạm Âm nhạc và Sư phạm Mỹ thuật là hai khoa có truyền thống, gắn liền với quá trình trưởng thành của nhà trường. Việc thành lập hai khoa Thanh nhạc – Nhạc cụ và Mỹ thuật cơ sở trong những năm gần đây là minh chứng cho những cố gắng, nỗ lực của cán bộ, giảng viên trong sự nghiệp xây dựng và phát triển. Đặc biệt, ngày 18 tháng 01 năm 2012 Bộ Giáo dục & Đào tạo làm bằng đại học đã ký Quyết định số 252/QĐ-BGDĐT về việc cho phép Trường ĐHSP Nghệ thuật TW đào tạo trình độ Thạc sỹ chuyên ngành Lý luận và Phương pháp dạy học Âm nhạc và gần đây nhất,  vào ngày 30 tháng 08 năm 2013, Bộ Giáo dục & Đào tạo đã ký Quyết định số 3456/2013/QĐ-BGDĐT về việc cho phép Trường ĐHSP Nghệ thuật TW đào tạo chuyên ngành Quản lý văn hóa trình độ Thạc sỹ. Là một cơ sở đào tạo nghệ thuật, Trường ĐHSP Nghệ thuật TW thể hiện sự giao thoa hài hòa giữa truyền thống và hiện đại, sự kết hợp sáng tạo giữa nét giản dị của sư phạm với sự phá cách trong nghệ thuật.
Thời gian gần đây, nhằm đáp ứng nhu cầu của xã hội và công tác giáo dục thẩm mỹ, chỉ tiêu tuyển sinh của nhà trường đã tăng lên đáng kể, áp lực thi cử cũng không còn nặng nề như trước. Có nhiều chuyên ngành gần nhau mà thí sinh có thể lựa chọn như: Sư phạm Âm nhạc và Văn hóa-Nghệ thuật; Sư phạm Mỹ thuật và Thiết kế thời trang; Hội họa và Đồ họa. Hơn nữa, trong một kỳ tuyển sinh, thí sinh có thể thi nhiều chuyên ngành. Đây chính là điểm đặc biệt của trường với các cơ sở giáo dục nghệ thuật khác.
Trường ĐHSP Nghệ thuật TW có đội ngũ cán bộ, giảng viên tâm huyết với nghề, giỏi chuyên môn, gần gũi, hòa đồng với sinh viên. Không khí các buổi học chuyên ngành sôi nổi, thú vị, thoải mái, hiệu quả cao. Sinh viên nghệ thuật vừa phát huy tính chủ động, tích cực trong học tập, vừa thể hiện khả năng sáng tạo, sự tìm tòi, khám phá và cách tân trong nghệ thuật.
Trường hiện có 07 khoa: Sau đại học, Sư phạm Âm nhạc, Thanh nhạc – Nhạc cụ, Sư phạm Mỹ thuật, Mỹ thuật cơ sở, Văn hóa – Nghệ thuật, Tại chức và Đào tạo liên kết với 08 chuyên ngành: Sư phạm Âm nhạc, Sư phạm Mỹ thuật, Quản lý văn hóa, Thiết kế thời trang, Hội họa và Đồ họa, Đại học thanh nhạc, Cao học Lý luận và Phương pháp dạy học Âm nhạc, Cao học Quản lý văn hóa. Nhà trường hiện đang đào tạo 3 hệ: sau đại học, đại học, cao đẳng với hình thức đào tạo chính quy và vừa làm vừa học.
Chương trình học cho hệ sau đại học là 2 năm, đại học chính quy là 4 - 5 năm, hệ cao đẳng chính quy là 3 năm. Ngoài các môn bắt buộc theo quy định, sinh viên có thể đăng ký học một số môn tự chọn theo khả năng và sở thích. Ngoài học tập trên lớp, mỗi khóa đều có các đợt thực tế chuyên môn (tùy từng chuyên ngành mà thời gian có thể ngắn dài khác nhau). Các đợt thực tế này thường được tổ chức tại các tỉnh miền núi phía Bắc hoặc các làng nghề truyền thống. Ngoài ra, sinh viên khoa Sư phạm Mỹ thuật và Sư phạm Âm nhạc còn có đợt thực tập chuyên môn sư phạm kéo dài 4 tuần tại các trường phổ thông. Tại đây, sinh viên có thể học hỏi, thực hành kỹ năng, vận dụng kiến thức trên giảng đường vào công tác giảng dạy thực tế. Thêm vào đó, sinh viên còn có thể nâng cao khả năng của mình bằng việc tham gia vào các công tác Đoàn, Đội và các hoạt động ngoại khóa, văn nghệ khác.
Với những kiến thức thu nhận được trên ghế nhà trường, sinh viên ĐHSP Nghệ thuật TW sẽ trở thành những giáo viên nghệ thuật, tổng phụ trách năng động; cán bộ văn hóa, nghệ thuật với những hoạt động phong trào, mỹ thuật quảng cáo… Đối với các chuyên ngành ngoài sư phạm, sinh viên ra trường cũng có nhiều sự lựa chọn. Họ có thể trở thành nhà thiết kế thời trang, kinh doanh thời trang, thiết kế đồ họa, họa sĩ, cán bộ phong trào, cán bộ quản lý văn hóa nghệ thuật ở các cơ quan nhà nước hoặc cơ quan bên ngoài khác.
Trường ĐHSP Nghệ thuật TW nằm trên tuyến đường chính nối trung tâm Hà Nội với các vùng lân cận, thuận tiện về giao thông, gần bệnh viện, các khu thương mại lớn, sinh hoạt phí ở mức trung bình.


Thứ Sáu, 1 tháng 8, 2014

Trường Đại học Dân lập Ngoại ngữ - Tin học TP. Hồ Chí Minh được thành lập ngày 26-10-1994 theo quyết định số 616/TTg của Thủ tướng Chính phủ. Tiền thân của Trường là Trường Ngoại ngữ và Tin học Sài Gòn (1992). Thủ tướng Chính phủ đã có quyết định chuyển Trường thành Trường Đại học Tư thục Ngoại ngữ - Tin học TP. Hồ Chí Minh tại Quyết định số 122/2006/QĐ-TTg ngày 29-5-2006, trên giấy tờ ghi là Trường làm bằng đại học Ngoại ngữ - Tin học TP. Hồ Chí Minh (HUFLIT).
Hơn 20 năm qua, bằng sự nỗ lực của tập thể sư phạm nhà trường, HUFLIT đã trở thành trường đại học ngoài công lập được xã hội đánh giá cao về chất lượng đào tạo. Trường đã thiết lập nhiều mối quan hệ quốc tế với các trường đại học trong khu vực và thế giới. Bên cạnh đó, Trường đã đóng góp tích cực, hiệu quả vào sự nghiệp xã hội hóa giáo dục, công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế - văn hóa đất nước. 
đại học ngoại ngữ tin học hcm

Trường có 9 Khoa (23 chuyên ngành làmbằng đại học ), 6 Phòng, Ban, Thư viện và 01 Trung tâm trực thuộc. Tổng số CBNV: 183, hơn 400 giảng viên giảng dạy tại Trường (trình độ sau đại học là 78%). 

Thành tích tiêu biểu:

Trường được tặng thưởng Huân chương Lao động hạng III (2007); 07 Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ (2002-2007); Bằng khen của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo về thành tích xuất sắc trong công tác chỉ đạo và thực hiện cuộc vận động “Kỷ cương-Tình thương-Trách nhiệm” 10 năm (1994-2004); 04 cờ thi đua và 05 Bằng khen của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo về hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ giáo dục, đào tạo, lao động sáng tạo, nghiên cứu khoa học, quản lý sinh viên...; và nhiều Bằng khen khác của các Bộ, Ngành trung ương.

Về công tác NCKH: Trường nhận được 04 Bằng khen về thành tích xuất sắc trong phong trào NCKH trong sinh viên (1999, 2001, 2005, 2006); Bằng khen của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo về kết quả 10 năm phong trào NCKH trong sinh viên giai đoạn 1995 – 2005; Từ 1998 đến 2012 đã có 42 SV nhận được giải sinh viên nghiên cứu khoa học của Bộ trong đó có 01 giải nhất, 8 giải nhì, 10 giải ba và 32 giải khuyến khích. Từ 1999 đến nay sinh viên trường đã dự thi Olympic Quốc gia Tin học và đạt được các giải thưởng gồm: Khối chuyên: 1 giải nhất, 1 giải nhì, 5 giải ba và 7 giải khuyến khích; Khối không chuyên: 2 giải hai, 6 giải ba, 2 giải khuyến khích, 2 giải tập thể lều chõng, 2 giải ngoại ngữ và 1 giải trắc nghiệm; Khối Cao đẳng: 4 giải ba, 3 giải khuyến khích, 1 giải ba đồng đội. Trong 04 năm liên tiếp (2010 – 2013) tham gia cuộc thi “Microsoft Office World Champion", sinh viên trường đều đạt giải Nhất tại Việt Nam, các sinh viên đạt giải được đại diện Việt Nam tham dự vòng chung kết thế giới tại Hoa Kỳ.
Đảng bộ cơ sở  hiện có 62 đảng viên, trên 50 đảng viên được kết nạp tại Trường. Chín năm liên tiếp 1998 - 2007 và năm 2011, 2012, Đảng bộ được công nhận trong sạch vững mạnh, trong đó có 6 năm liền được Thành ủy thành phố Hồ Chí Minh công nhận Đảng bộ trong sạch vững mạnh tiêu biểu (2002 - 2007).

Công Đoàn trường được tặng thưởng Huân chương lao động hạng III (2012); 02 cờ thi đua của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, 14 cờ thi đua của Liên đoàn Lao động Thành phố, 02 cờ thi đua của Công đoàn Giáo dục Việt Nam; và nhiều bằng khen khác cho các tập thể và cá nhân trong hoạt động công đoàn.

Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh trường được nâng cấp là Đoàn tương đương cấp Quận, Huyện từ năm 2000. Nhiều năm liền được công nhận cơ sở Đoàn xuất sắc, tiên tiến, được UBND Thành phố tặng thưởng Cờ thi đua cơ sở Đoàn Xuất sắc 03 năm liền từ 2003 – 2006; và nhiều bằng khen của Trung ương Đoàn, UBND Thành phố và các tỉnh trong các hoạt động phong trào; Có 03 công trình của sinh viên được công nhận Kỷ lục Việt Nam.

Hội Sinh viên trường được thành lập từ năm 1998, nhiều năm liền đạt danh hiệu tiên tiến, xuất sắc. Được Trung ương Hội và UBND Thành phố tặng nhiều Bằng khen cho đơn vị xuất sắc trong công tác Hội và phong trào sinh viên. Đạt nhiều huy chương các loại trong phong trào văn thể mỹ do Bộ Giáo dục và Đào tạo, Tổng cục Chính trị Quân đội Nhân dân Việt Nam, Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch, Quân khu 7 trao tặng. 

Trường đã tổ chức nhiều hội thảo khoa học, trong đó có 6 hội thảo cấp quốc gia và quốc tế. Tập san Ngoại ngữ – Tin học và Giáo dục của Trường đã có trên 500 bài, nhiều bài đã được đăng ở các tạp chí khác trong nước và nước ngoài. 

Quan hệ quốc tế: Trường đã được kết nạp vào Tổ chức quốc tế Pháp ngữ (AUF), Đại học không biên giới (USF), Hội mùa Xuân của Pháp (A.P); trường có 12 Chi hội hữu nghị. Về hợp tác quốc tế, đến nay HUFLIT đã có quan hệ với hơn 30 trường đại học và tổ chức nghiên cứu trên thế giới, ký 32 Thỏa thuận hợp tác đào tạo quốc tế với nhiều trường và viện đại học ở Trung Quốc, Mỹ, Anh, Pháp, Tân Tây Lan, Ba Lan, Sec, Nhật, Hàn Quốc, Thái Lan, Indonesia...